Sưu tầm, biên soạn và chỉnh lý Kinh Thi

Chế độ "thái thi"

Kinh Thi là một bộ tổng tập văn chương gồm 305 bài thơ vốn là lời bài hát có nhạc đệm, được lưu truyền trong dân gian từ đầu thời kì Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu, trong khoảng thời gian 500 năm[4] (tuy nhiên, có 5 bài thơ được đoán định sáng tác từ đời Thương[5]). Từ lĩnh vực dân gian chuyển sang lĩnh vực thành văn, hơn nữa lại còn được xếp vào loại sách kinh điển, Kinh Thi phải trải qua quá trình sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn... mới có được bản hiện hành[2].

Để lý giải quá trình sưu tầm Thi, các nhà Kinh học đời Hán đưa ra thuyết Thái thi 採詩, căn cứ theo sách Lễ ký 禮記. Thiên Vương chế 王制 sách ấy chép điển lễ nhà Chu rằng "Thiên tử cứ năm năm đi tuần thú một lần. Tháng hai năm ấy đi tuần thú đến núi Đại Tông ở phía đông, thắp hương nến tế vọng núi sông. Thăm chư hầu, hỏi về các bậc cao tuổi và đến gặp. Truyền mệnh cho quan Thái sư trình thơ để xem xét nề nếp của dân chúng. Mệnh cho quan coi chợ trình giá cả để xem xét sự thích, ghét trong dân, ghi chép nết hay nết xấu phổ biến. Mệnh cho quan Điển lễ khảo sát thời tiết, tháng để định ngày trước sau. Xem xét luật lệ, chế độ, y phục, chỉnh lại cho đồng bộ[6][7]".

Việc thu thập thơ ca trong dân chúng nói ở trên gọi là thái thi (hái thơ), nó đã được nhà Chu thi hành một cách nghiêm túc, có quan đặc trách theo quy chế nhà nước: Thái sư. Vị quan này lại tổ chức một mạng lưới rộng rãi sưu tầm thi ca trong dân gian, đó là các Hành nhân hay còn gọi là quan Thái thi.

Những người được chọn làm quan Thái thi ở nơi thôn dã tương đối cao tuổi. Trong sách Xuân Thu Công Dương truyện 春秋公洋傳, Hà Hưu chú thích rằng "Đàn ông sáu mươi tuổi, đàn bà năm mươi tuổi, không có con, quan cho mặc cho ăn, sai vào dân gian tìm thơ[8]. Ngoài ra, họ còn phải "đạt" yêu cầu khác như mù lòa và am hiểu âm nhạc, nên đôi khi được gọi là cổ, mông, tẩu 瞽矇瞍[9]. Các Hành nhân thường đi lại trên đường, nhất là vào đầu xuân nhiều lễ hội, tay đánh mõ để sưu tầm thi ca, trình lên cho Thái sư, so sánh với các làn điệu rồi dâng lên cho vua nghe[10].

Thực ra, trong giới nghiên cứu Kinh Thi cũng có người không tin từ đời Chu đã có được mạng lưới sưu tầm như vậy, theo họ, đây chỉ là phỏng đoán, tưởng tượng của học giả đời Hán chứ trước Hán không thấy tư liệu nào chép việc này, nên cách nói của họ mới không nhất trí[11][12].

Các bài thi ca được sưu tầm và biên tập bởi chế độ thái thi đời nhà Chu, chính là phần lớn tư liệu biên soạn Kinh Thi sau này. Bên cạnh đó, còn có những khúc ca tế lễ ở tông miếu, nhạc yến tiệc, nhạc đi săn, nhạc xuất binh, tán tụng công đức vua chúa là âm nhạc của triều đình; nhạc của công khanh liệt sĩ, chư hầu hiến lên Thiên tử[13] mà một số bài vẫn còn tên tác giả[12]. Trừ mấy thiên ở Thương tụng 商頌 đề cập đến đời nhà Thương xa xưa mà nhiều khả năng do người đời sau phóng tác, hầu hết các bài thơ sưu tầm được đều ra đời trong thực tiễn lao động của dân chúng hoặc liên quan mật thiết đến các hoạt động chính trị, quân sự, tôn giáo, giải trí vui chơi của xã hội đương thời[14].

Những bài trong Kinh Thi không phải ngay từ đầu đã là bài hát theo nhạc; có một số vốn là thơ, khi phổ nhạc, không tránh khỏi sự thêm bớt của nhạc quan. Nhiều bài có những câu xuất xứ từ những khu vực khác nhau, nên chưa hẳn là ngôn ngữ của nguyên tác[15]. Có những bài có đoạn không ăn khớp, không dính liền với những đoạn khác[16], cũng có thể thấy dấu vết của sự thêm bớt, chắp nối. Ngoài ra, còn có những chỗ thay đổi có tính chất nhuận sắc, như sửa vần, sửa câu, cũng như thay tiếng địa phương bằng lời tao nhã[12].

Về không gian sưu tầm dân ca, căn cứ theo Thập ngũ Quốc phong trong Kinh Thi, thì các vùng sưu tầm được Thi ngày nay đại để tương ứng với mấy tỉnh Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Hồ Bắc trên diện tích 1020000 km²[17]. Điều này cho thấy sự nghiêm túc của Hành nhân trong việc sưu tầm, để tạo nên thành quả là khối lượng thơ đồ sộ trên một địa bàn rộng lớn như vậy.

Theo sử gia Tư Mã Thiên, số thơ sưu tầm được ở đời Chu vốn có 3000 bài, phần nhiều trùng điệp, sau Khổng Tử san định, chỉ lấy 305 bài[18].

Khổng Tử san định

Thiên Khổng Tử thế gia 孔子世家 trong Sử ký 史記 của Tư Mã Thiên chép rằng "Ngày xưa Kinh Thi có tất cả hơn ba nghìn thiên. Đến thời Khổng Tử, Khổng Tử bỏ bớt những thiên trùng điệp, chỉ lấy 305 thiên có thể có ích cho lễ nghĩa, đều phổ nhạc, cố tìm âm hợp với nhạc Thiều, Vũ, Nhã, Tụng[19]".

Thiên Tử Hãn 子罕 trong sách Luận ngữ 論語 cũng ghi rằng "Khổng Tử nói: Ta từ nước Vệ trở về Lỗ, sau đó chỉnh đốn âm nhạc, rồi Nhã Tụng đâu ra đấy[20]".

Tranh khắc hình Khổng Tử của họa sĩ đời Đường Ngô Đạo Tử

Lục Đức Minh trong Kinh điển thích văn 經典釋文 cũng viết "Khổng Tử san lục Kinh Thi, trước hết chọn lấy những bài về đời Chu, lại lấy cả những bài Thương tụng, phàm ba trăm mười một thiên[21]."

Người ta thường dựa vào các thuyết trên để cho rằng Khổng Tử có chọn lọc, san định để tạo nên bộ Kinh Thi 305 bài ngày nay. Tuy nhiên, một số học giả như Khổng Dĩnh Đạt đời Đường; Trịnh Tiều, Chu Hy đời Tống; Thôi Thuật đời Thanh... vẫn còn hoài nghi việc đó vì Khổng Tử chưa bao giờ nói đến việc mình san định Kinh Thi. Trong Độc phong ngẫu chí 讀風偶識, Thôi Thuật đã biện bạch việc Khổng Tử san Thi như sau

Ai bảo Khổng Tử có san định Kinh Thi? Việc đó thấy chép trong Sử ký chứ Khổng Tử chưa khi nào nói đến. Khổng Tử nói "Tiếng nước Trịnh dâm", ấy là nước Trịnh có nhiều thi ca dâm dật. Khổng Tử nói "Đọc Thi ba trăm thiên", ấy là Thi có ba trăm thiên chứ Khổng Tử chưa từng san định. Học giả không tin lời Khổng Tử mà tin lời người khác, thật là điều quái gở ![22]

Lý do nữa để chứng minh không có việc Khổng Tử san định Thi là thời gian không khớp. Sách Tả truyện 左傳 chép việc "Quý Trát quan nhạc", kể chuyện công tử nước NgôQuý Trát đến nước Lỗ và được nghe nhạc vào năm 544 TCN, năm đầu đời Chu Cảnh Vương. Theo đó thì tên các loại, các phần, thứ tự trước sau những bài thơ nước Lỗ hát cho Quý Trát nghe gần giống như bản Kinh Thi hiện nay, đủ cả Phong, Nhã, Tụng[4]. Mà Khổng Tử sinh vào năm Lỗ Tương Công thứ 22 tức năm 551 TCN, khi Quý Trát nghe nhạc thì ông mới lên 8 tuổi, san định Kinh Thi sao được! Vả chăng, Khổng Tử thường nói đến Thi hoặc Thi tam bách[23], một số sách trước đó cũng đã nói đến Tam bách thiên[24]...Do đó có thể đoán khi Khổng Tử ra đời, đã có một tập thơ mà số bài và cách biên soạn đại khái giống như bản Kinh Thi ngày nay. Sử ký chép Khổng Tử san định Kinh Thi, có lẽ ông chỉ sửa câu chữ cho hợp với làn điệu mà thôi[24].

Nhưng cũng không thể phủ nhận công sức lớn lao của Khổng Tử trong việc định hình Thi tam bách từ thơ ca dân gian thành văn bản kinh điển. Thiên Thiên vận 天運 sách Trang Tử 莊子 kể chuyện Khổng Tử gặp Lão Tử và nói "Khâu này khảo cứu sáu kinh Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu[25]". Mặc dù vẫn còn tranh luận về vấn đề thời điểm tên gọi Thi kinh xuất hiện, song công lao của Khổng Tử trong truyền bá và sửa chữa Thi là cần khẳng định. "Tư vô tà", nhận xét của Khổng Tử về Thi tam bách trong thiên Vi chính 為政 sách Luận ngữ là một quan điểm được nhiều thế hệ truyền tụng.

Mao thi

Sau khi tiêu diệt sáu nước, Tần Vương Doanh Chính đặt ra danh xưng Hoàng đế, lên ngôi vua, tức Tần Thủy Hoàng, không đặt chư hầu, chia cả nước thành quận huyện, trực tiếp cai trị theo đường lối Pháp gia, thực hiện chính sách "đốt sách chôn Nho", "đốt sách cấm học", "hai người dám bàn nhau về việc Kinh Thi, Kinh Thư thì chém giữa chợ, lấy đời xưa mà chê đời nay thì giết cả họ[26]". Do vậy, phần lớn sách kinh điển thư tịch đời Tiên Tần đều bị nhà Tần đốt, trong đó có Thi.

Đến đời nhà Hán, Thi mới được sưu tầm và phục nguyên lại. Trong số những học giả có công sưu tầm, phục nguyên Kinh Thi đời Hán, chủ yếu có bốn nhà: Viên Cố Sinh người nước Tề, Thân Bồi người nước Lỗ, Hàn Anh người nước Yên, hai thầy trò Mao Hanh người nước LỗMao Trường (hoặc Mao Trành) người nước Triệu. Về sau, các học giả nghiên cứu Kinh Thi lấy tên nước hoặc họ của bốn nhà nói trên mà gọi tên của Kinh Thi, thành ra bản của Viên Cố Sinh sưu tầm gọi là Tề thi, của Thân Bồi thì gọi là Lỗ thi, của Hàn Anh thì gọi là Hàn thi, của hai thầy trò họ Mao thì gọi là Mao thi. Bản Mao thi xuất hiện sau cùng, phần lớn có quan hệ với Tả truyện, việc huấn hỗ cũng nhiều chỗ giống Nhĩ Nhã 爾雅, được gọi là bản Cổ văn; ba bản kia gọi là Kim văn[27].

Chu Hy, triết gia Trung Quốc, tác giả Thi kinh tập truyện, người đã chú giải cho toàn bộ 311 bài thơ trong Mao thi

Vào thời Hán Vũ Đế, triều đình cho lập Học quan nghiên cứu Thi ba nhà Tề, Lỗ, Hàn; Mao thi xuất hiện muộn hơn, chưa được lập Học quan nghiên cứu[27]. Học giả theo Lỗ thi có Vương Giảm, Triệu Quán, Khổng An Quốc, Chu Bá, Hạ Khoan, Từ Yển, Khánh Kỵ; học giả tiếp thu Tề thi có Thương Dực, Tiêu Vọng Chi, Khuông Hành, Sư Đan. Thuyết Hàn thi thì có Tôn Thương, Thái Nghị, Vương Cát, Phiếu Phong, Trương Tựu. Đây đều là những học quan lớn của triều đình đương thời[28]. Ba nhà cùng là Kim văn, nguồn gốc khác nhau, đều có chủ thuyết riêng nên Kinh Thi thành ra có nhiều dị bản, nghĩa lý trở nên mờ mịt[29].

Riêng Mao thi, ra đời từ Mao Hanh (còn gọi là Đại Mao công), rồi được Mao Trường (còn gọi là Tiểu Mao công) tiếp thu. Tiểu Mao công là quan Bác sĩ[30] của Hà Gian Hiến Vương Lưu Đức - con trai vua Hán Cảnh Đế. Có người cho rằng Khổng Tử truyền các lời giảng về Kinh Thi cho học trò là Tử Hạ, Tử Hạ truyền cho Tăng Thân (con trai Tăng Tử), Tăng Thân truyền cho Lý Khắc, Lý Khắc truyền cho Mạnh Trọng Tử (con trai Mạnh Tử), Trọng Tử truyền cho Căn Mâu Tử, Mâu Tử truyền cho Tôn Khanh, Tôn Khanh truyền cho Mao Hanh, Hanh đem Huấn, Truyện mình làm truyền cho Mao Trường. Các ông Trịnh Chúng, Giả Quỳ đời Đông Hán đều học Mao thi, Mã Dung viết Truyện chú thích cho Mao thi. Vào cuối thời Đông Hán, nhà học giả Trịnh Huyền (hay Trịnh Khang Thành) đã chú thích kĩ cho Mao thi, chú thích của ông có ảnh hưởng lớn đến việc nghiên cứu Kinh Thi về sau, người ta gọi là Trịnh tiên 鄭箋[28]. Người học Mao thi ngày càng đông, ba nhà Tề, Lỗ, Hàn dần dần mai một, chỉ còn Mao thi lưu hành đến ngày nay. Học giả Bửu Cầm trong bài viết Giới thiệu Kinh Thi in mở đầu bộ sách Thi kinh tập truyện do Tạ Quang Phát dịch, tái bản năm 2003 thì Tề thi mất về đời nhà Ngụy, Lỗ thi mất về đời nhà Tấn, Hàn thi mất về đời Ngũ Đại Thập Quốc.

Truyện do Mao Hanh làm, học giả Bì Tích Thụy đời Thanh cho là còn "giản lược" trong khi Truyện do Thân Bồi làm thì để khuyết các chỗ còn tồn nghi, không giải thích tỉ mỉ từng câu từng chữ[29]. Các học giả sau đời Hán muốn hiểu rõ nghĩa Mao thi, gặp chỗ khuyết thiếu, thường lấy ý mình suy đoán, sáng tạo giải thích mới, bổ sung thêm. Mao thi được hoàn thiện dần đến đời nhà Tống thì thực sự chiếm vị trí độc tôn trong học đường. Đó là bản Mao thi có Truyện do Chu Hy chú thích.

Kinh Thi qua bàn tay của Chu Hy đã bị "kinh học hóa" (classicize), "huyền thoại hóa" (mythify), nặng về huấn hỗ (chú giải nghĩa văn để giáo dục, dạy dỗ hay là tạo ra mẫu mực phép tắc) và lý tính để tuyên truyền, minh họa đạo lý Nho gia. Nhưng trào lưu "kinh học hóa","huyền thoại hóa" ấy dần dần bị phản đối, từ đời nhà Minh đã xuất hiện trào lưu nghiên cứu Kinh Thi phản truyền thống, coi trọng thi ý và tình cảm mà coi nhẹ huấn hỗ và lý tính, trào lưu này tiếp tục phát triển mạnh vào đời nhà Thanh. Phương Ngọc Nhuận người đời Thanh viết cuốn Thi kinh nguyên thủy 詩經原始 với phương châm theo chữ để xét nghĩa, tìm nguyên ý gốc của thi nhân. Phương Ngọc Nhuận cho rằng thơ trong Kinh Thi không bị câu nệ bởi Thi tự và Mao truyện, như với thiên Phù dĩ, ông gạt bỏ các thuyết "chữa ác tật" và "chữa khó đẻ"; với thiên Manh, ông cho đây không phải là sáng tác về việc ruồng bỏ vợ. Ông còn nói rằng "Đại để là các nhà nghiên cứu về Kinh Thi trước hết đều bị một cái mũ vừa to vừa rộng chụp vào đầu, rồi sau mới tự mình trình bày ý kiến riêng". Ở Nhật Bản, các học giả từ thời Edo đã kế thừa xu hướng "phản truyền thống" trong nghiên cứu Kinh Thi đời Minh ở Trung Quốc. Các học giả Nhật là hai cha con Ito JinsaiIto Togai, Yanagawa Seigan... thời Edo và Ono Kozan thời Meiji đều chủ trương đọc Kinh Thi với tư cách là một tác phẩm văn học[31]. Đó cũng là quan điểm chính thống của giới Thi học khi nghiên cứu về Kinh Thi hiện nay.